(kỷ niệm 74 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)
Đứng trước sự hung hăng và kiêu ngạo của thực dân Pháp, lịch sử đang thử thách sự kiên định của một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử. Với khát vọng bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là lời hịch non sông, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Hơn 70 năm đã đi qua, đất nước đã có nhiều thay đổi, nhưng lời hiệu triệu đó vẫn còn nguyên giá trị.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy đất nước ta lúc bấy giờ đứng trước hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài. Phía Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, đi cùng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu "Diệt Cộng, cầm Hồ". Phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là muốn cướp nước ta lần nữa...Trong nước, giặc đói đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, hơn 95% dân số nước ta lúc đó mù chữ.
Đứng trước dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với toàn Đảng và cả dân tộc sát cánh bên nhau, đưa ra nhiều kế sách nhằm hòa hoãn với Tưởng và sau đó là Pháp để xây dựng và củng cố lực lượng như: Ký với thực dân Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Nhưng với dã tâm xâm lược đất nước ta một lần nữa, cuối tháng 11/1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Tại Hà Nội, ngày 17/12, chúng phá các công sự của quân dân thủ đô ở phố Hàng Bún - Yên Ninh, gây đổ máu ở khu vực cầu Long Biên, Cửa Đông (Hà Nội). Ngày 18/12/1946, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Quân Pháp đe dọa, nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Để hiệu triệu toàn dân đứng lên chống Pháp và để có đường lối chung chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong cuộc họp chiều ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Hội nghị đóng góp ý kiến cho văn bản Người đã soạn thảo. Vào lúc 20 giờ ngày 19- 12-1946, tiếng đại bác từ pháo đài Láng hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến được phát ra, cuộc kháng chiến chống xâm lược bùng nổ trên phạm vi cả nước. Sáng sớm ngày 20-12-1946, qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi cả nước với quyết tâm cao độ là đánh thắng giặc Pháp xâm lược, bảo vệ tổ quốc.
(Hình ảnh nhân dân thủ đô dựng chiến hào để cản bước tiến của thực dân Pháp)
Nội dung Lời kêu gọi
Mở đầu, Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Đây là cuộc chiến tranh giữ nước; đồng thời tố cáo tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do thực dân Pháp gây ra - kẻ xâm lược.
Thông qua Lời kêu gọi, Người khẳng định quyết tâm kháng chiến bảo vệ nền độc lập của nhân dân ta. Lời kêu gọi viết: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!” Đây chính là sự xuất phát điểm của truyền thống anh dũng bất khuất của dân tộc, khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Do vậy, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.
Cùng với kêu gọi toàn thể nhân dân tham gia kháng chiến, Hồ Chí Minh kêu gọi: Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”. Trong giờ phút cam go, Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang thể hiện tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đây chính là quan điểm rõ nhất của Hồ Chí Minh cho tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống một kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình trên tất cả các mặt.
Đồng thời khẳng định tính tất yếu của thắng lợi cuối cùng chắc chắn thuộc về dân tộc Việt Nam. Kết thúc Lời kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định một niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta". Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”. Niềm tin của Hồ Chí Minh dựa vào cơ sở: “Chính ắt thắng tà”; dựa vào sức mạnh của chiến tranh nhân dân; quy luật vận động, phát triển biện chứng của chiến tranh cách mạng theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; kinh nghiệm trong lịch sử kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử.
Ý nghĩa của tác phẩm
Trong tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử dựng nước và giữ nước, mong muốn hòa bình để dựng xây đất nước là khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Cho nên, Người khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do - thành quả của Cách mạng Tháng Tám vừa giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời khẳng định đó là sự kết tinh của truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là sự tiếp nối ý chí và quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” đã được Người khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập.
Có thể khẳng định, đây là lời hịch cứu nước, có tác dụng cổ vũ, thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh giặc. Để huy động sức mạnh, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Lời hiệu triệu của Người là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới.
Lời kêu gọi đã phác họa những nét cơ bản về đường lối chống thực dân Pháp, góp phần chỉ đạo, định hướng cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trong tương quan lực lượng có lợi cho địch. Để giành thắng lợi, chúng ta phải lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Nắm chắc vấn đề đó, với tầm nhìn thấu suốt, nên trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ những nét cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp: toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Người chỉ rõ lực lượng tham gia kháng chiến là toàn dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, đảng phái; đánh Pháp bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể; đồng thời, Người cũng chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng thắng lợi cuối cùng “nhất định về dân tộc ta”.
Hơn bảy mươi năm đã trôi qua, lời hịch thiêng liêng kêu gọi toàn dân tộc đoàn kết, đứng lên chiến đấu, giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ đã để lại những bài bài học sâu sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đồng thời, thực hiện đoàn kết mọi tầng lớp, lực lượng trong xã hội, trên nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; giải quyết hài hòa các lợi ích làm cơ sở cho sự ổn định, đoàn kết và thống nhất. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quan trọng là phải xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả bệnh quan liêu, tham nhũng, tạo lòng tin trong nhân dân.
Trải qua lịch sử truyền thống của dân tộc, tiếp nối hào khí của bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” thời Lý, “Hịch tướng sĩ” thời Trần, “Bình Ngô đại cáo” thời Lê Sơ,... Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một áng hùng văn bất hủ, chứa đựng những giá trị và tư tưởng mang tính thời đại, là lời hịch động viên cả nước đứng lên chiến đấu bằng thái độ kiên định và dứt khoát. Lời kêu gọi còn là bản cương lĩnh kháng chiến có tính khái quát cao, chứa đựng những quan điểm về đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc và khẳng định niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Những tư tưởng cơ bản đó cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới của cách mạng. Nhằm đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước đi vào chiều sâu và phát triển bền vững đất nước.
Chu Mai Phong
M88 Link
Lưu ý: tất cả các nội dung trích của tác phẩm "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" đã được in trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158-159